Mô hình Hợp tác xã tiêu biểu

1. Mô hình hoạt động hiệu quả của hợp tác xã nông nghiệp Tân Cường Những năm gần đây, Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Tân Cường, xã Phú Cường, huyện Tam Nông, Đồng Tháp làm ăn liên tục có lãi… Các đồng chí lãnh đạo huyện Trấn Yên thăm vườn tre Bát độ […]
1. Mô hình hoạt động hiệu quả của hợp tác xã nông nghiệp Tân Cường
Những năm gần đây, Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Tân Cường, xã Phú Cường, huyện Tam Nông, Đồng Tháp làm ăn liên tục có lãi…
Các đồng chí lãnh đạo huyện Trấn Yên thăm vườn tre Bát độ

Những năm gần đây, Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Tân Cường, xã Phú Cường, huyện Tam Nông, Đồng Tháp làm ăn liên tục có lãi. Từ những ngày đầu khó khăn, thiếu thốn đến nay tài sản của Hợp tác xã đã tăng lên 42 tỷ đồng, thu hút nhiều xã viên tham gia và trở thành mô hình Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới điển hình.

Thành lập năm 2000, Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Tân Cường chỉ có 31 triệu đồng tiền vốn. Để có thể hoạt động theo điều lệ, 6 thành viên trong Ban quản trị Hợp tác xã đã phải thế chấp phần ruộng đất nhà mình để vay vốn ngân hàng. “Chúng tôi tích cực tuyên truyền, thuyết phục bà con xã viên, ban đầu dịch vụ đơn thuần chỉ là tưới tiêu cho 430ha đất nông nghiệp của xã, lấy đó làm vốn để hoạt động. Trước tình hình khó khăn về điện, Hợp tác xã đã bố trí lịch bơm nước vào giờ thấp điểm nên giá thành hạ, giá thu thủy lợi phí thấp hơn bên ngoài Hợp tác xã. Dần dần, xã viên rất tin tưởng”, ông Nguyễn Văn Trãi – Giám đốc Hợp tác xã, chia sẻ.

Nhờ có cách làm thông minh nên ngay trong năm đầu tiên hoạt động, dịch vụ bơm tưới của Hợp tác xã đã sản sinh lợi nhuận, cuối năm Hợp tác xã chia lãi theo tỷ lệ góp vốn của xã viên với mức 5%/tháng.

Từ đây, Hợp tác xã bắt tay vào xây dựng trạm bơm, đê bao, cống, đập để phân vùng, khép kín đồng bộ cánh đồng bằng bơm điện, trong đó có 430ha đê bao khép kín sản xuất 3 vụ và 170ha sản xuất 2 vụ trong năm…

Sau đó, Hợp tác xã bắt đầu phát triển sang các hoạt động khác như cung cấp nước sạch nông thôn, vật tư nông nghiệp, sản xuất kinh doanh lúa giống, tiêu thụ lúa hàng hóa và cung cấp tín dụng nội bộ xã viên.

Ông Nguyễn Văn Trãi cho biết, hoạt động tín dụng nội bộ của Hợp tác xã chính thức vận hành từ năm 2004, 10 năm sau doanh số dư nợ đã đạt trên 7 tỷ đồng, góp phần tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho thành viên.

Tính đến Đại hội đại biểu thành viên thường niên đầu năm 2017, Hợp tác xã có 128 thành viên tham gia góp vốn trị giá trên 9 tỷ đồng và đã chuyển đổi hoạt động theo Luật Hợp tác xã năm 2012. Trong năm 2016, chỉ tính riêng 2 dịch vụ chính của Hợp tác xã là cung ứng và tiêu thụ nông sản, Hợp tác xã đã thu lãi gần 2 tỷ đồng.

“Hợp tác xã chia lợi nhuận cho xã viên chủ yếu bằng hai hình thức: theo góp vốn (60%), theo sử dụng dịch vụ (40%). Tổng cổ phần của Hợp tác xã là 10.524 cổ phần, trong đó 1.800 cổ phần không sử dụng dịch vụ. Hiện nay, Hợp tác xã phát triển theo mô hình cánh đồng lớn, với tổng diện tích 1.500ha đều áp dụng cơ giới hóa, lúa của xã viên được bao tiêu toàn bộ”, ông Trãi cho hay.

Ông Huỳnh Thanh Thao – thành viên Hợp tác xã cho biết: “Là cổ đông của Hợp tác xã Tân Cường, chúng tôi được cung cấp vật tư nông nghiệp với giá gốc, được hướng dẫn kỹ thuật sản xuất từ A-Z, doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm với cam kết được hỗ trợ thêm 200 đồng/kg. Mấy vụ lúa gần đây, vụ nào gia đình tôi cũng lãi hơn 100 triệu đồng, ngoài ra còn có khoảng 14 triệu đồng cổ tức nữa. Vào Hợp tác xã chúng tôi làm ăn nhàn hẳn, khỏi lo chuyện thương lái ép giá lúa”.

Theo chia sẻ của ông Trãi, để tạo ra lượng lúa hàng hoá lớn, thu hút doanh nghiệp vào thu mua sản phẩm, Hợp tác xã đã xây dựng mô hình cánh đồng mẫu sản xuất theo quy trình VietGAP; phối hợp với các doanh nghiệp như Công ty Cổ phần dịch vụ Bảo vệ thực vật An Giang; Công ty Cổ phần Phân bón dầu khí Cà Mau… để xây dựng mô hình, hướng dẫn xã viên ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hợp lý nhằm nâng cao chất lượng lúa, giảm chi phí…

Về bí quyết bón phân “4 đúng”, ông Hướng cho biết: “4 đúng” nghĩa là bón đúng lúc, đúng loại, đúng liều lượng, đúng phương pháp. Nguyên tắc phải nhớ đối với việc bón phân đạm, ví dụ như bón N.Humate TE của Đạm Cà Mau là “nặng đầu nhẹ cuối”. Cụ thể, 30-40% lượng đạm cho đợt 1; 30-40% cho đợt 2; 20% cho đợt 3 (đón đòng); nếu cần thì bón 10% cho lúc lúa trổ. Trồng lúa nghe đơn giản nhưng để đạt năng suất cao, gạo thơm ngon thì không nên bón nhiều đạm vào cuối vụ, lúc lúa làm đòng trở đi.

VNeconomy

Nguồn: http://www.hoinongdan.org.vn

2. HTX thủy sản Phú Thọ: “Hạt nhân” kinh tế của Bắc Ninh

Với những mô hình chăn nuôi thủy sản cho doanh thu hàng tỷ đồng mỗi năm, HTX nuôi trồng thủy sản Phú Thọ (xã Quảng Phú, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh) đang nổi lên như một điểm sáng về phát triển kinh tế địa phương.

Nhờ sự hợp tác, liên kết cùng phát triển, đến nay, trên 90% các hộ thành viên HTX có doanh thu bình quân hơn 300 triệu đồng/năm, cá biệt có những hộ đạt 700 – 800 triệu đồng/năm. HTX trở thành “bệ đỡ” vững chắc, vừa hỗ trợ, thúc đẩy quá trình sản xuất, vừa là tấm “khiên chắn” bảo vệ quyền lợi cho các hộ thành viên.

Liên kết nuôi thủy sản 

Ông Đinh Viết Huy – Giám đốc HTX Phú Thọ, cho biết: “HTX thành lập vào đầu năm 2010 với mục tiêu hỗ trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển sản xuất. Với tinh thần tự chủ, sáng tạo, cùng có lợi, HTX đã xây dựng thành công hàng chục mô hình đầm nuôi thủy sản có doanh thu hàng trăm triệu mỗi năm”.

Ngay từ khi thành lập, tôn chỉ hoạt động của HTX là “phát huy vai trò của tập thể để nâng cao thu nhập của các thành viên”. Theo đó, với vai trò đại diện tập thể, HTX đứng ra giúp thành viên tiếp cận với các chính sách hỗ trợ của địa phương, các ngân hàng, tổ chức tín dụng, đồng thời là đại diện pháp lý trong quá trình tìm kiếm, đàm phán với các đối tác làm ăn.

Điển hình như về giống, hằng năm, HTX cung cấp gần 100 triệu con giống có năng suất, giá trị kinh tế cao như chép lai ba màu, rô phi đơn tính, cá trôi, cá mè, cá trắm đen… với giá được hỗ trợ 50%, giúp nông dân giảm bớt chi phí đầu vào.

HTX cũng đại diện các thành viên kiến nghị cơ quan chức năng địa phương tạo điều kiện cấp nguồn điện 3 pha để chạy các máy quạt nước tạo sóng, bảo đảm môi trường cho các ao nuôi, nhằm gia tăng năng suất, chất lượng thủy sản.

Năm 2014, với sự thống nhất chung của các thành viên, HTX huy động các nguồn lực để mở đại lý thức ăn thủy sản, trước hết phục vụ cho các thành viên trong HTX và sau đó là cho các hộ nuôi trồng. Tại đại lý này, các hộ thành viên có thể mua cám công nghiệp rẻ hơn 12 – 17% so với mua giá thông thường.

“Với sự tự chủ từ đầu vào (giống, nguồn nước, thức ăn chăn nuôi…) đến đầu ra (thu hoạch, thị trường…), các thành viên HTX có thể phát huy tối đa sức sáng tạo và đạt được hiệu quả cao nhất. HTX đóng vai trò cố vấn, giúp thành viên lựa chọn đúng giống cá, thời điểm gieo giống, quy trình chăm sóc… làm sao để sản phẩm đánh đúng và trúng nhu cầu thị trường”, Giám đốc Đinh Viết Huy chia sẻ.

Với những thành công của HTX Phú Thọ, mô hình HTX thủy sản đang được lan tỏa ra nhiều địa phương khác trong huyện Lương Tài. Theo thống kê, toàn huyện hiện có 7 HTX chuyên ngành về nuôi trồng thủy sản, thu hút hàng trăm thành viên tham gia.

Lan tỏa sức mạnh 

Bên cạnh sự hiệu quả vượt trội của HTX Phú Thọ, các HTX khác cũng phát huy được vai trò của mình trong sự phát triển kinh tế của các hộ thành viên, như HTX nuôi trồng thủy sản An Trụ (xã An Thịnh), HTX cá nước ngọt Bình Minh (xã Trừng Xá)…

Chia sẻ về lợi ích khi tham gia vào HTX, ông Hà – thành viên HTX An Trụ, chia sẻ: “Tham gia vào HTX là chuyển từ sản xuất tự phát sang sản xuất theo quy trình. Với sự hỗ trợ của HTX về cả kỹ thuật, giống, vốn, thức ăn trả chậm… hiệu quả sản xuất gia tăng đáng kể. Năm 2016, tôi thu lãi hơn 300 triệu đồng”.

Ông Phạm Thanh Hải – Phó Chủ tịch UBND huyện Lương Tài, đánh giá: “Các mô hình HTX thủy sản trên địa bàn đang là “chìa khóa” thúc đẩy việc chuyển đổi ruộng trũng, cải tạo ao hồ mặt nước gắn với phát triển thủy sản theo hướng thâm canh, chuyên canh. Tính đến cuối năm 2016, huyện có gần 1.400 ha nuôi trồng thủy sản, cho hiệu quả cao gấp 3 – 4 lần so với cây lúa. Giá trị kinh tế từ thủy sản đạt trên 500 tỷ đồng/năm”.

Cho thấy hiệu quả rõ rệt, tuy nhiên, các HTX thủy sản trên địa bàn huyện Lương Tài vẫn gặp phải một số khó khăn nhất định. “Vấn đề quy hoạch để sản xuất tập trung vẫn đang là “bài toán” khó của các HTX trên địa bàn. Việc chăn nuôi cá thể khiến quá trình phát triển theo hướng hàng hóa quy mô lớn rất khó khăn”, Giám đốc Đinh Viết Huy chia sẻ.

Chưa kể, thị trường tiêu thụ vẫn chủ yếu do các HTX tự tìm kiếm, thương thảo. Việc chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản trong HTX vẫn còn gặp nhiều rủi ro về dịch bệnh, do yếu tố môi trường, thời tiết và thiếu áp dụng KH-KT.

Những khó khăn trên đòi hỏi cá cơ quan chức năng địa phương và tỉnh Bắc Ninh cần tăng cường quan tâm, tạo điều kiện giúp các HTX từng bước tháo gỡ. Chỉ có như vậy, các HTX thủy sản ở Lương Tài mới thực sự trở thành “hạt nhân” liên kết nông dân khởi nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh tế vùng.

Theo Thời báo kinh doanh

Nguồn: vca.org.vn

 

3. Hợp tác xã (HTX) nấm Nhơn Phước

Nghề trồng nấm mang lại nguồn thu đáng kể cho bà con nông dân, nhờ trồng nấm, nhiều gia đình ở thành phố Đà Nẵng vươn lên thoát nghèo.

Thành lập năm 2015, Hợp tác xã (HTX) nấm Nhơn Phước, ở xã Hòa Nhơn, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng tạo việc làm cho nhiều người với mức thu nhập ổn định. Ông Nguyễn Văn Nhi, Giám đốc HTX nấm Nhơn Phước cho biết, trồng nấm chi phí thấp, đỡ vất vả hơn so với các nghề khác. Sau khi trừ chi phí, ông Nhi lãi gần 150 triệu đồng/năm từ việc trồng nấm.

“Đầu ra cho sản phẩm thì HTX cũng đang liên hệ với các doanh nghiệp tìm hướng ra ổn định để giải quyết đầu ra của sản phẩm. HTX cũng cố gắng để cho các thành viên nâng cao thu nhập. Năm 2018 thì HTX cũng đầu tư về cơ giới hóa trong sản xuất là dây chuyền đóng bịch phôi nấm tự động và hệ thống tưới nhà xưởng, ứng dụng các tiến bộ khóa học kỹ thuật” – ông Nhi nói.

thoat ngheo nho trong nam hinh 1
Nghề trồng nấm mang lại nguồn thu đáng kể cho bà con nông dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng (Ảnh: báo Đà Nẵng)

Hợp tác xã Nấm Nhơn Phước tạo việc làm cho nhiều thành viên với thu nhập từ 3,5 – 5 triệu đồng/người/tháng. Bà Lê Thị Khánh, ở thôn Thạch Nham Đông, xã Hòa Nhơn, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng cho biết: “HTX tạo điều kiện cho chúng tôi làm cũng được ổn định thu nhập gia đình con ăn học. Nhờ trồng nấm cũng ổn định, lương cũng đỡ không khó khăn như ngày xưa nữa.”

Hiện nay, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có gần 20 HTX trồng nấm rơm, nấm sò, nấm linh chi… Từ nguồn Quỹ Hỗ trợ nông dân, Hội Nông dân thành phố Đà Nẵng đã giúp đỡ hàng ngàn lượt hộ vay vốn trồng nấm. Các ngành chức năng thành phố cũng tổ chức tập huấn kỹ thuật trồng nấm cho người dân, qua đó nhiều gia đình đã thoát nghèo bền vững.

“Nghề trồng nấm đầu ra khá tốt và giá tiêu thụ ổn định, giúp cho bà con nông dân trên địa bàn huyện Hòa Vang có nguồn thu nhập thường xuyên để hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình. Nhiều hộ gia đình đầu tư trồng nấm với quy mô khá lớn. Trung bình một lao động trồng nấm thu nhập khoảng 5 triệu đồng/tháng” – ông Đặng Văn Hồng, Giám đốc Trung tâm Khuyến Ngư Nông Lâm thành phố Đà Nẵng nói./.

Theo VOV

4. Cây na hiện đang được các địa phương trong tỉnh Lào Cai khuyến khích trồng ở những vùng quy hoạch cây ăn quả, nhằm thúc đẩy người dân phát triển kinh tế, mang lại thu nhập cao.  

Theo số liệu thống kê của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Bảo Thắng, toàn huyện hiện có 259 ha cây na, tập trung chủ yếu ở 2 xã Xuân Quang và Phong Niên (chiếm 50% diện tích toàn huyện), còn lại trồng rải rác tại các xã, thị trấn. Năm 2017, sản lượng quả na toàn huyện Bảo Thắng đạt 163 tấn.

Giá bán quả na chín đầu vụ thường từ 60.000 – 70.000 đồng/kg. Hiện, người trồng na đang bắt đầu vào chính vụ thu hoạch quả, giá bán thời điểm hiện tại khoảng 50.000 – 60.000 đồng/kg quả na loại to (3 – 4 quả/kg); 40.000 – 50.000 đồng loại na nhỏ hơn (5 – 6 quả/kg), còn loại nhỏ hơn 30.000 – 35.000 đồng/kg.

Theo nhiều người trồng na ở Xuân Quang cho biết: Na là loại quả chỉ thu hoạch 1 vụ trong năm, trong khoảng thời gian chưa đầy 2 tháng, lại là loại quả ngon, bổ dưỡng, được nhiều người ưa thích, nên giá bán ổn định. Đầu vụ giá cao, chính vụ giá giảm đôi chút, nhưng lại tăng về gần cuối vụ. Những năm gần đây, na đang là cây ăn quả có đầu ra ổn định, mang lại thu nhập khá cho người trồng. Với năng suất khoảng 3 tấn/ha, bình quân giá bán 30.000 đồng/kg, mỗi ha cũng đem lại nguồn thu gần trăm triệu đồng mỗi vụ cho người trồng na.

Không chỉ ở Bảo Thắng, hiện huyện Bắc Hà cũng trồng 7ha cây na tại 3 xã vùng thấp: Bảo Nhai, Cốc Ly, Cốc Lầu. Mỗi vụ na đem lại thu nhập khá cho người trồng na.

5. Những mô hình nông nghiệp tiêu biểu ở Mộc Châu

Đó là HTX rau an toàn Tự Nhiên tại bản Tự Nhiên, xã Đông Sang (Mộc Châu). Theo bà Nguyễn Thị Luyến, Giám đốc HTX rau an toàn Tự Nhiên: Hiện, các loại sản phẩm rau của HTX đều được sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, đảm bảo an toàn đối với người sử dụng nên được thị trường đón nhận. Để hàng hóa đạt tiêu chuẩn, vào được các siêu thị, trung tâm mua sắm lớn khó khăn lắm, họ kiểm tra kỹ lưỡng từ lúc còn đang gieo trồng tại vườn đến khi thu hoạch và tổng kiểm tra lần cuối các sản phẩm trước khi đưa vào bày bán. Ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc trong sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, HTX còn đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhằm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm. Đến nay, HTX đã ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm với các siêu thị lớn ở Hà Nội như: Metro, Vinmart, BigC…

HTX rau an toàn Tự Nhiên được thành lập năm 2015 với 38 thành viên, sản lượng các loại rau màu bình quân đạt trên 1.200 tấn/năm, tạo thu nhập ổn định cho xã viên với mức thu nhập bình quân từ 500 đến 600 triệu đồng/1ha đất sản xuất trong 1 năm.

HTX Cựu chiến binh Mộc Châu chuyên nuôi ong. Hiện, HTX có trên 1.500 đàn ong được nuôi theo quy trình an toàn đã được chứng nhận VietGAP. Sản lượng mật bình quân đạt hơn 300 tấn/năm và được đưa đi tiêu thụ tại các tỉnh, thành phố lớn trên cả nước; lợi nhuận bình quân đạt từ 800 triệu đến 1 tỷ đồng. HTX đã tạo việc làm thường xuyên cho 10 lao động, với mức thu nhập bình quân trên 6 triệu đồng/người/tháng. Đem khoe với chúng tôi một số sản phẩm làm từ ong, như: Mật, sữa ong chúa, phấn hoa…

Ông Trần Trọng Bình, Giám đốc HTX Cựu chiến binh Mộc Châu, chia sẻ: Phát huy lợi thế cao nguyên Mộc Châu trong lành, lại có nhiều rừng cây và đồi cây ăn quả, HTX đã từng bước mở rộng quy mô nuôi ong, vừa chuyển đổi giống ong, vừa phổ biến cho cán bộ, hội viên áp dụng khoa học kỹ thuật chăn nuôi theo hướng VietGAP để nâng cao chất lượng và sản lượng sản phẩm, cung cấp dịch vụ vật tư, con giống, kỹ thuật nuôi ong cho các thành viên trong Hợp tác xã. Vừa qua, các sản phẩm của HTX được tham gia trưng bày sản phẩm tại Hội chợ nông sản sạch thủ đô Hà Nội, chương trình do Trung tâm Xúc tiến thương mại của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức. Tại Hội chợ, nhiều khách hàng yêu thích và tin tưởng mua rất nhiều sản phẩm của chúng tôi.

Hiện nay, trên địa bàn huyện Mộc Châu có rất nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp đem lại hiệu quả kinh tế cao, tiêu biểu, như: Rau an toàn của Hợp tác xã rau an toàn Tự Nhiên; chanh leo của HTX Chanh leo Mộc Châu; mận hậu của Tổ hợp tác sản xuất và tiêu dùng mận an toàn Mộc Châu; hồng giòn và nấm của HTX nấm Thảo Nguyên Mộc Châu; cam… Mộc Châu xác định việc hỗ trợ các HTX, tổ hợp tác, hộ gia đình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm; tạo điều kiện giúp các tổ chức, cá nhân đổi mới công nghệ, ứng dụng khoa học tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp; hỗ trợ, nhân rộng chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất, bảo quản, chế biến nông sản, nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, từng bước hình thành các sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu mang thương hiệu Mộc Châu.

6. Trồng ớt xuất khẩu ở huyện Lạc Thủy

Ông Hoàng Đình Chính, Phó Trưởng phòng NN&PTNT huyện Lạc Thủy (Hòa Bình) cho biết: Thực hiện Quyết định số 1047/QĐ-UBND ngày 17/8/2016 của UBND huyện về việc phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững giai đoạn 2016-2020, năm 2017, UBND huyện giao Phòng NN&PTNT phối hợp với xã An Lạc triển khai trồng 5 ha ớt sừng lai F1 số 20 có liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, thuộc dự án Liên kết sản xuất và tiêu thụ ớt, bí đỏ tập trung đảm bảo an toàn thực phẩm huyện Lạc Thủy, giai đoạn 2017- 2018. Mô hình bước đầu đã đem lại hiệu quả và hiện đang nhân rộng trên địa bàn.

Là xã được chọn thực hiện điểm mô hình trồng ớt, xã An Lạc nằm cách trung tâm huyện 18km, có tổng diện tích trên 2.400ha. Diện tích đất nông nghiệp trên 2.130ha với gần 90% dân số trong xã làm nông nghiệp.

Theo ông Hoàng Đình Chính: Nhờ hiệu quả thực tế từ mô hình ở xóm An Phú, bước sang năm 2018, diện tích ớt xuất khẩu đã được người dân trên địa bàn huyện nhân rộng. Xã An Lạc đã mở rộng ra 6 ha, xã Hưng Thi 5 ha, Lạc Long 4 ha và thị trấn Chi Nê 2 ha. Công ty TNHH ớt Việt Nam đã ký biên bản ghi nhớ với UBND huyện Lạc Thủy để phát triển vùng nguyên liệu và bao tiêu sản phẩm. Đây là động thái tích cực thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững của huyện, góp phần nâng cao thu nhập, giảm nghèo bền vững cho người dân trên địa bàn.

7. Làm giàu từ nuôi dê

Sở hữu mô hình nuôi dê lớn nhất huyện Chợ Đồn (Bắc Kạn), với số lượng lên đến hàng trăm con, anh Bùi Văn Sỹ ở thôn Bó Pết, xã Yên Thịnh đã từng bước ổn định cuộc sống gia đình, vươn lên làm giàu.

Trại nuôi dê của vợ chồng anh Bùi Văn Sỹ được chia thành 2, gồm một chuồng dê cái sinh sản và một chuồng dê thương phẩm. Chia sẻ về quá trình lập nghiệp anh Sỹ cho biết: Trước đây anh đã trải qua nhiều nghề vất vả, từ làm ruộng đến nuôi bò, trồng cây ăn quả…nhưng cuộc sống vẫn bấp bênh, anh luôn trăn trở tìm hướng đi phù hợp để thay đổi cuộc sống gia đình. Nhận thấy vùng đất của gia đình xa khu dân cư, thuận lợi về nguồn nước lại là đồi thoải sẵn có nguồn thức ăn dồi dào từ tự nhiên nên rất phù hợp với phát triển chăn nuôi dê. Năm 2015, anh đã bắt tay vào làm chuồng trại, nuôi khởi đầu 25 con dê cái sinh sản. Để đạt hiệu quả cao, anh đã tìm đến học tập kỹ thuật chăm sóc dê với một kỹ sư chuyên ngành và học hỏi kinh nghiệm qua các mô hình chăn nuôi dê ở nhiều địa phương và trên phương tiện truyền thông đại chúng. Đến nay đàn dê của anh có 100 con, lúc đông nhất lên đến 150 con.

2 năm nay, anh Sỹ luôn duy trì nuôi 50 con dê cái sinh sản, mỗi năm dê cái đẻ 2 lứa, mỗi lứa từ 1-2 con. Đối với dê đực, sau khi cai sữa anh chăn tách đàn, nhốt chuồng riêng nuôi vỗ béo khoảng 5 tháng mỗi con nặng 25-30kg thì đem bán, giá dê hơi 110.000 đồng/kg, mỗi tháng anh bán từ 5-6 con dê thịt thu về khoảng 20 triệu đồng/tháng. Tổng thu nhập từ nuôi dê của gia đình anh (chưa trừ chi phí đầu tư) đạt khoảng 200 triệu đồng/năm. Nhờ vậy, anh có điều kiện trang trải cuộc sống gia đình, hướng tới mở rộng quy mô chăn nuôi thành trang trại với số lượng từ 300-400 con.

8. Triển vọng mới từ mô hình trồng cây bí xanh ở Ngọc Động

Với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu ưu đãi, những năm qua, xã Ngọc Động (Quảng Uyên, Cao Bằng) triển khai nhiều mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng hiệu quả, nâng cao thu nhập cho người dân. Trong đó mô hình trồng bí xanh được nhiều hộ gia đình thực hiện hiệu quả.

Xã Ngọc Động có 16 xóm, diện tích đất sản xuất nông nghiệp 647,539ha. Nhận thấy điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu phù hợp trồng cây bí xanh, nhiều năm qua, nhân dân 2 xóm Phò Đoỏng, Lũng Nhàu đã tích cực mở rộng diện tích mô hình trồng 1,3 ha cây bí xanh.
Khác với bí xanh thông thường có dáng thon dài thì loại bí xanh thơm đặc sản của xã Ngọc Động có hình bầu dục, nặng 1,5 – 4 kg, có hương thơm, ngọt đặc trưng.  Cây bí xanh là loại cây ngắn ngày, dễ trồng, nếu chăm sóc tốt cho khối lượng mỗi quả lên tới 5 – 8 kg. 1 ha có thể cho thu hoạch từ 18 – 20 tấn bí xanh thơm, thu về 20 – 25 triệu đồng/vụ. Giống bí được bà con chọn là những quả to, tròn, hạt mẩy, đặc biệt là những quả đầu tiên kết trái. Khi cây vươn dài khoảng 30 – 40 cm thì dựng giàn để cây dễ phát triển và cho quả. Bón phân chuồng hoai mục, tưới nước thường xuyên, đảm bảo độ ẩm cho cây sinh trưởng, phát triển tốt.

Để nâng cao năng suất, sản lượng, xã thường xuyên phối hợp với Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Quảng Uyên tập huấn kỹ thuật. Qua các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật trồng và chăm sóc, những năm gần đây, mô hình trồng bí xanh được nhân rộng. Trồng bí xanh cho hiệu quả kinh tế cao hơn các loại cây trồng khác do vốn đầu tư ban đầu ít, độ rủi ro không lớn. Tuy nhiên, bà con cần có sự liên kết “4 nhà” để mô hình được nhân rộng, phát triển bền vững.

Theo KTNT

Tìm kiếm